Tu hành tránh ức chế tâm
ỨC CHẾ TÂM
Câu hỏi của Liễu Thiện
HỎI: Kính thưa Thầy! Theo sự hiểu biết của con, thì ức chế vọng tưởng là do những niệm khởi lên mà ta không tỉnh thức quán xét xem là thiện hay ác pháp, để xả bỏ. Vội vàng đoạn diệt không cần truy cập nó thuộc về lậu hoặc nào.
Vả lại, ức chế tâm còn do sự ham muốn dục lạc, khi dục lạc ham muốn khởi lên ta cũng không quán xét lợi hay hại để xả bỏ mà chỉ có nhẫn chịu, vì thế, nếu có dịp nó sẽ bung ra. Có phải vậy không thưa Thầy?
ĐÁP: Đúng vậy, sự ức chế tâm có hai cách:
1- Chịu đựng mọi sự giận hờn, căm tức, phiền não, sợ hãi, lo rầu, v.v.. mà không bao giờ nói ra cho một ai biết. Sự chịu đựng này gọi là kham nhẫn.
Ví dụ: Trong gia đình có người chồng độc tài luôn luôn bắt vợ con phải tuân theo lệnh của mình, sai bảo đâu làm đó, không được làm trái. Những người bị bắt buộc như vậy gọi là chịu đựng, những người chịu đựng là những người ức chế tâm.
Sức chịu đựng sẽ đến một mức độ nào đó, thì không còn chịu đựng được nổi. Khi không còn chịu đựng nổi thì thần kinh hưng phấn, thần kinh hưng phấn thì người ấy bị rối loạn thần kinh, bị điên khùng, bị tẩu hỏa nhập ma, v.v..
Suốt thời gian chịu đựng thì người ấy là người khổ đau tận cùng của cuộc đời mình.
2- Người dùng một đối tượng, một pháp môn để ức chế tâm để không khởi niệm vọng tưởng, đó là loại ức chế có pháp môn, có phương cách.
Loại ức chế tâm này có đường lối, có phương pháp để dẫn tâm vào thế giới tưởng như: Thiền xuất hồn, Thiền Yoga, Thiền Đại Thừa, Thiền Đông Độ, Thiền Lục Diệu Pháp Môn, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, v.v..
Cho nên, các pháp môn này đều xây dựng cho mình một thế giới siêu hình mơ hồ, trừu tượng, ảo giác, khiến cho con người phải mê mệt với nó, nhưng không ích lợi thiết thực cho đời sống.
Chỉ riêng có thiền của Phật giáo Nguyên Thủy thì xả tâm “ly tham đoạn ác pháp”. Do đó, người tu hành sẽ không bị ức chế tâm và đạt được kết quả giải thoát làm chủ sanh, già, bịnh, chết, chấm dứt tái sanh luân hồi.
(Trích sách Đường về xứ Phật – Tập 3, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 172-174)
TU HÀNH NÊN TRÁNH PHÁP ỨC CHẾ
Câu hỏi của Từ Tuệ
HỎI: Kính thưa Thầy! Trong đời sống của người cư sĩ, con nhận thấy phải tập dần cho bớt ăn bớt ngủ. Về ăn con nên giảm bữa ăn sáng trước hay bữa ăn tối trước, như thế nào tốt hơn?
Khi đã quen hai bữa mà không yếu sức khỏe thì có thể giảm xuống một bữa ngay tại đời sống cư sĩ không?
Con đang chuẩn bị để tăng dần “hành trang” thuận lợi cho giai đoạn sống ở tu viện. Kính xin Thầy chỉ dạy.
ĐÁP: Muốn sống một đời sống Phạm hạnh thì phải sống đúng như lời dạy đức Phật dạy, thì phải hết sức tránh sự ức chế thân tâm.
Giáo pháp của đức Phật là giáo pháp xả tâm, nếu không khéo tu sai một chút xíu, hành lệch lạc thì sẽ bị ức chế tâm ngay liền. Hầu hết tu sĩ Phật giáo ngày nay tu sai lệch rơi vào pháp ức chế tâm mà không biết.
Sự giảm thiểu bớt bữa ăn, bớt giờ ngủ, tức là con phải thay thế bằng những việc làm khác có mục đích ly tham đoạn ác pháp để giúp tâm thanh thản, an lạc.
Ví dụ: Hằng ngày, 9 giờ chúng ta đi ngủ lúc bây giờ chỉ cần thức thêm 5’, 10’ hoặc 30’. Trong lúc thức thêm thì chúng ta tu tập tỉnh thức và xả tâm trong khi đi kinh hành, vừa đi vừa tác ý nhắc tâm để xả tham, sân, si: “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành”. Mới đầu tập bớt ngủ thì chỉ cần thức thêm 5’ mà thôi rồi từ từ tăng dần lên 10’, tu tập cho thuần thục trong 10’, rồi mới tăng lên 15’ đến 30’. Đó là cách thức tập bớt ngủ, bớt ngủ tỉnh thức trong chánh niệm thì rất có lợi làm giảm bớt tâm tham, sân, si, giảm bớt tâm tham, sân, si là tâm thanh thản, an lạc, giải thoát.
Ăn cũng vậy, buổi sáng mọi người đều có ăn điểm tâm. Ta có thể bớt ăn buổi sáng, ăn trưa và chiều. Vì trưa cả gia đình đều hội họp hoặc buổi chiều.
Muốn cho gia đình đầm ấm yên vui và hạnh phúc thì bữa ăn là bữa sum họp cả gia đình, có như vậy mới tìm thấy tình thân thương trong huyết quản.
Tùy theo sự có mặt đầy đủ mọi người trong gia đình thì chúng ta không nên bỏ bữa ăn đó. Nhiều khi trưa ở sở không về được chỉ có buổi tối mới có buổi ăn sum họp.
Muốn có sự yên vui của mọi người thì bữa ăn tối hoặc trưa là buổi họp mặt đầy đủ nhất, ta không nên vì sự tu tập mà làm mất sự sum họp của gia đình.
Vậy ba bữa ăn trong ngày con nên khéo léo chọn lấy bữa ăn, tạo hoàn cảnh sum họp gia đình yên vui và hạnh phúc. Chỉ một hành động nhỏ như vậy mà không cân nhắc kỹ lưỡng, khiến cho bữa ăn trong gia đình buồn tẻ.
Đạo Phật là đạo trí tuệ, đạo đức không làm khổ mình, khổ người, tạo cảnh tu tập cho mình mà luôn luôn làm cho mọi người vui mình vui, đó là tu thiền định xả tâm.
Thiền định xả tâm còn có tên gọi là “Bất Động Tâm Định”. Bất Động Tâm Định là đạo đức nhân bản – nhân quả làm người, là mục đích sống đời sống Phạm hạnh, là những oai nghi tế hạnh của những bậc Thánh Tăng, là mục tiêu của đạo Phật, cho nên người nhập Bất Động Tâm Định là người sống đầy đủ đức hạnh làm người “Không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai”.
Người có bất động tâm định không có nghĩa là tâm họ trơ trơ như đá; người có bất động tâm định là người sống biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng với mọi người, với mọi hoàn cảnh, với mọi sự việc không làm chướng ngại mình, chướng ngại người; người có bất động tâm định là người sống trong trí tuệ nhân quả, ứng dụng nhân quả, chủ động điều khiển nhân quả, chuyển hóa nhân quả.
Tất cả những sự trau dồi thân tâm và tu tập thì phải tu tập từng bước một và phải sáng suốt trong khi tu tập, phải có nghị lực và bền chí, không nên tu tập vài ba hôm rồi nghỉ, mà phải tu tập liên tục có ý chí quyết liệt. Đừng nên lúc thích thì tu, lúc hết thích thì bỏ tu. Tu hành mà theo kiểu một nắng hai sương thì uổng công lắm các bạn ạ!
Đời người trên thế gian này phải vạch ra cho mình một hướng đi rõ ràng, một cuộc sống có đạo đức làm lợi ích cho mình cho người và nhất là phải đạt được mục đích của hướng đi đó.
(Trích sách Đường về xứ Phật – Tập 5, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 205-208)
TÂM THƯ GỬI KIM QUANG VÀ KIM TIÊN
Kính gửi: Kim Quang và Kim Tiên. Khi các con về Tu Viện thì không gặp được Thầy, nhưng chắc các con đều thông suốt giáo pháp xả tâm ly dục ly ác pháp của Phật, mà không còn bị lầm lạc rơi vào những pháp ức chế thân tâm của các Tổ sư tưởng giải tu hành, nên Thầy không lo cho các con lắm, vì các con đã từng gặp các pháp môn này ở các trường thiền của Phật giáo phát triển từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông.
Thầy xin có lời khuyên nhắc các con: tu hành theo Phật giáo chỉ có XẢ TÂM BẰNG TRI KIẾN, vì thế, phải giữ gìn GIỚI LUẬT nghiêm chỉnh thì xả tâm mới không bị ức chế. Các con đừng xem thường giới luật, mà hãy xem giới luật là mạng sống của các con, thì sự tu tập mới dễ dàng chứng đạo.
Như các con đã hiểu, muốn chứng đạo, tức là chứng đạt chân lí thì phải giác ngộ chân lí; giác ngộ chân lí là phải hiểu biết rõ chân lí; có hiểu biết rõ chân lí mới hộ trì và bảo vệ được chân lí; có hộ trì và bảo vệ được chân lí mới chứng nhập vào chân lí, tức là chứng đạo.
Vậy, hiện giờ các con có ngộ được chân lí hay chưa?
Chân lí là một trạng thái tâm bất động; là tâm thanh thản, an lạc và vô sự; là tâm ly dục, ly ác pháp; là tâm không phóng dật; là tâm không có ba lậu hoặc: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu; là tri kiến giải thoát; là tâm định trên thân; là tâm trên thân quán thân, v.v… Trong những tên gọi trên đây là chỉ cho trạng thái chân lí. Vậy, trong các danh từ này, các con có nhận tâm mình ở trạng thái chân lí này chưa? Nếu chưa, thì phải thân cận bậc thiện hữu tri thức, những người chứng đạo, họ sẽ chỉ và sẽ khai ngộ cho.
Nếu nhận được rồi thì sự tu tập của các con không còn khó khăn, mệt nhọc, chỉ ngồi chơi mà đuổi các chướng ngại pháp; chỉ ngồi chơi mà bảo vệ và hộ trì chân lí. Khi nào chướng ngại pháp không còn tác động vào thân tâm, thì chân lí hiện tiền trong cuộc sống các con hằng ngày. Lúc bấy giờ là các con đã chứng đạo.
Đây, các con hãy đọc lại đoạn kinh này trong kinh Trường Bộ, thì sẽ rõ sự chứng đạo của Phật giáo không phải khó khăn, mà mọi người ai cũng có thể nhận thấy sự chứng đạo rõ ràng qua tri kiến của mình. Đoạn kinh dạy:
“Tôn giả Xá Lợi Phất đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng: “Ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một Sa Môn, một Bà La Môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện Chánh Giác”.
Do lời tuyên bố đức Phật vĩ đại mạnh mẽ như vậy, nên đức Phật gạn hỏi:
– Có phải ông dùng THA TÂM THÔNG để biết về quá khứ, vị lai và hiện tại của tất cả các bậc tu hành có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh túc như vậy và có giải thoát như vậy, mà cả gan rống lên tiếng rống sư tử như vậy không?
Ông Xá Lợi Phất nói: “Bạch Thế Tôn, không!”
Do đó, đức Phật bảo: “Này Xá Lợi Phất! Như vậy, Ngươi không có tha tâm thông đối với các vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, vị lai và hiện tại. Như vậy, này Xá Lợi Phất, vì sao Ngươi lại thốt ra những lời đại ngôn, lời nói gan dạ, rống lên tiếng rống của con sư tử?
Khi được hỏi như vậy, ông Xá Lợi Phất trả lời: “Bạch Thế Tôn! Con không có tha tâm thông… Chỉ vì, con biết truyền thống về chánh pháp. Bạch Thế Tôn! Tất cả các vị A La Hán Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, tương lai và hiện tại đã diệt trừ Năm Triền Cái, những nhiễm tâm, khiến cho trí tuệ yếu ớt không còn dục, đã an trú tâm vào Bốn Niệm Xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác Chi, đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác”. (Trường Bộ tập I, trang 558, kinh Đại Bát Niết Bàn)
Đọc đoạn kinh này, các con lưu ý: ông Xá Lợi Phất nhận xét thấy sự chứng đạo của đức Phật bằng ý thức tri kiến của mình, của một người bình thường. Ông hiểu biết Phật qua ý thức sự nhận xét, nên tin tưởng đức Phật là một người sáng suốt về phương diện chánh giác, vĩ đại hơn bất cứ một Sa Môn nào, Bà La Môn nào ở mọi thời quá khứ, vị lai và hiện tại. Nghĩa là suốt thời gian quá khứ, vị lai và hiện tại, từ khi có trời đất và loài người, thì không có một người nào tu chứng trí tuệ hiểu biết vĩ đại như đức Phật.
Cũng đoạn kinh trên đây, chúng ta nhận thấy một người tu chứng không phải căn cứ vào thần thông, mà căn cứ vào chỗ Năm Triền Cái: tham, sân, si, mạn, nghi và tâm không còn dục nhiễm (GIỚI). Kế đó, tâm đã an trú vào Bốn Niệm Xứ, đã chân chánh có Bảy Giác Chi (ĐỊNH), đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác (TUỆ). Đây là GIỚI, đây là ĐỊNH, đây là TUỆ rõ ràng cụ thể, không có một người nào dám phủ nhận nói sai được.
Nhưng đoạn kinh dưới đây, cũng trong kinh Đại Bát Niết Bàn, thuộc kinh Trường Bộ tập I, trang 559 kết tập sai, do tri kiến học giả của các Tổ không có công phu tu chứng đạt chân lí, nên kết tập không đúng. Các con đọc mà suy ngẫm:
“Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu”.
Đoạn kinh có 2 chỗ sai:
– Câu thứ nhất: “ĐỊNH cùng tu với GIỚI” là sai. Thường kinh dạy GIỚI sanh ĐỊNH, thế mà đoạn kinh này dạy ĐỊNH cùng tu với GIỚI. Vậy ĐỊNH chưa có, lấy gì cùng tu với GIỚI. Vậy xin các bạn suy ngẫm lại đoạn kinh này đúng hay sai? Cho nên đức Phật bảo: “Đừng tin vào kinh tạng” là vậy.
– Câu thứ hai: “TUỆ cùng tu với ĐỊNH”, câu này cũng sai. Theo Phật dạy thì ĐỊNH sanh TUỆ. Vậy chưa có TUỆ, mà lấy TUỆ tu ĐỊNH. Vậy xin các bạn cũng suy ngẫm câu kinh này có phải Phật thuyết không, hay các Tổ thuyết? Điều này để cho người tu chứng sẽ trả lời. Phải không các con?
Theo kinh nghiệm tu hành của Thầy, ở câu kinh này phải hiểu cho rõ ràng, là “lấy TÂM tu GIỚI”, là “lấy TÂM tu ĐỊNH”, là “lấy TÂM tu TUỆ”. Đó là đúng nghĩa theo lời Phật dạy, vì Phật dạy: “Hãy tin những gì là thiện, mang đến kết quả giải thoát cho mình cho người”.
Cho nên, khi lấy TÂM tu GIỚI là có kết quả ngay liền; kết quả ngay liền tức là giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật; không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm an trú trên Tứ Niệm Xứ; tâm an trú trên bốn niệm xứ là ĐỊNH. Khi tâm an trú trong Định là tâm có Tri kiến giải thoát và TUỆ Tam Minh.
Cho nên, muốn xét người tu chứng là nên xét ở GIỚI LUẬT, ở sự an trú trên TỨ NIỆM XỨ, và ở TRÍ TUỆ TRI KIẾN GIẢI THOÁT, chứ không nên xét qua Thần Thông hay ngồi thiền năm, bảy ngày, một tháng hoặc hai, ba tháng.
Cho nên, trong khi tu tập phải giữ trọn vẹn giới ăn, ngủ, độc cư cho nghiêm chỉnh, và những giới nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Nhờ giữ gìn những giới luật đó nên mới xả tâm được rốt ráo. Các con hãy đọc kỹ những lời dạy trên đây để tu tập không bị ức chế tâm, khi Thầy vắng mặt tại Tu Viện. Thầy đang lo cho các con có một cơ sở mới nữa, nếu đủ duyên.
Hiện nay, các con tu tập có ba phần:
1- Giữ gìn nghiêm chỉnh hạnh ĐỘC CƯ, không được vi phạm những lỗi nhỏ nhặt trong đó;
2- Ngồi chơi, xả chướng ngại của tâm, của thân bằng pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý, bằng TRI KIẾN, bằng ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ, bằng THÂN HÀNH NIỆM;
3- Phải để tự nhiên tâm AN TRÚ TRÊN TỨ NIỆM XỨ.
Các con hãy cứ tu tập như vậy, khi nào BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI xuất hiện đủ là tu tập xong.
Tu hành theo Phật giáo, các con đừng nghĩ đến và cầu mong TAM MINH, LỤC THÔNG, mà chỉ ước nguyện tu hành sao có được sức làm chủ bốn chỗ đau khổ: sinh, già, bệnh, chết, và biết nơi chốn sau khi chết các con sẽ về đó.
Trong cuộc sống hằng ngày mà các con đã làm chủ được bốn sự đau khổ, nhất là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì hạnh phúc biết bao. Phải không các con?
Nếu các con đủ lòng tin nơi Phật, nơi Thầy thì sự chứng đạo không còn bao lâu nữa. Vì những pháp hành trên đây là những pháp gạn lọc tâm rốt ráo, để sớm đạt được tâm thanh tịnh chân thật, để nhập vào chân lí mà những người tu chứng đều phải trải qua.
Thăm và chúc các con tu tập tốt, nhớ đừng tu tập ức chế tâm bằng mọi hình thức, bằng mọi pháp môn. Ức chế thân tâm rất nguy hiểm cho cuộc đời tu hành.
Thân thương chào các con.
(Trích sách Những bức tâm thư – Tập 2, TVCN – 2014, trang 296-303)
ỨC CHẾ
Câu hỏi của Minh Nghĩa
HỎI: Kính thưa Thầy! Trong lúc tu Định Niệm Hơi Thở, dọc sóng mũi luôn có cảm giác và vùng trán căng như vậy là ức chế hơi thở phải không thưa Thầy? Làm sao khắc phục tình trạng này?
ĐÁP: Nếu có cảm giác tê tê nặng đầu, hay căng đầu là do tu tập sai pháp, do dùng hơi thở ức chế tâm, chứ không phải tu Định Niệm Hơi Thở. Vì Định Niệm Hơi Thở là phương pháp dẫn tâm chứ không tập trung ức chế tâm như các loại thiền khác để hết vọng tưởng. Con nên tu tập lại cho đúng cách, nhẹ nhàng dẫn tâm như ru con ngủ sẽ khắc phục được. Nếu vì đã tu tập pháp ức chế tâm quen, nên mỗi khi nhiếp tâm vào hơi thở là có cảm giác căng đầu thì con nên xả bỏ không tu tập về hơi thở nữa, mà tu thân hành ngoại như đi kinh hành tập tỉnh thức nơi bước đi, nếu chú ý bước đi mà bị căng đầu nữa thì con tu Tứ Niệm Xứ, tức là ngồi kiết già quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp, thấy có chướng ngại gì trên đó thì tác ý xả bỏ, tác ý chừng nào chướng ngại pháp đó rời khỏi bốn chỗ đó mới thôi. Pháp tu tập này không có căng đầu, vì không có đối tượng để tập trung tâm. Tu tập như người vô sự, an nhàn, chỉ khi nào có chướng ngại pháp mới dùng tri kiến tác ý để giúp cho thân tâm thanh thản an lạc và vô sự.
(Trích sách Đường về xứ Phật – Tập 5, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 246-247)